Câu chuyện lừa gạt trong lịch sử Y Khoa Âu Mỹ
Bác Sĩ Trần Lý Lê
Tự ngàn năm đã có những chuyện giả và chuyện "thật". Chuyện "giả" là sự loè bịp có chủ ý, và chuyện "thật" là một hàng nào đó người ta tin rằng có hiệu quả. Cụ Winston Osler đã cho rằng sự khác biệt giữa người và vật là ý muốn sử dụng thuốc men. Con người, cây sậy có trí khôn, muốn gia tăng sức khoẻ, chữa lành thương tích. Sự (nghèo) khổ và đau (đớn) là những động lực chính thúc đẩy con người tìm kiếm phương cách loại bỏ những đau và khổ này, đôi khi trả giá bằng chính sự sống.
Trước khi ngành Y Khoa được tổ chức với các chương trình huấn luyện, việc thử nghiệm y tế, và sự kiểm soát của chính phủ như hiện nay, đã có 4 ngành chữa trị khác nhau: allopathic (ngành Y khoa hiện nay chữa trị bằng cách ngăn ngừa hoặc loại trừ bệnh tật), homeopathic (homeo = tương tự, patho = bệnh tật, ngành y học dựa trên khái niệm chữa trị bệnh tật bằng cách dùng những thứ tương tự), thảo mộc (botanical), và nước (hydropathic). Một thời rất lâu trong lịch sử y học thế giới và riêng Hoa Kỳ, các cách chữa trị, thuốc men được buôn bán tự do, chẳng cần thử nghiệm, chỉ cần quảng cáo. Người bệnh tha hồ mua thuốc men tự chữa, bác sĩ có thể cho toa không cần khám nghiệm bệnh nhân. Trăm hoa tha hồ nở, hoa thật hoa giả chen chân cho đến khi chính phủ đặt ra luật pháp để kiểm soát cách thức chữa trị bệnh tật và bắt buộc thử nghiệm các thứ thuốc men.
Ngày xửa ngày xưa vào thủa vàng son của nền văn hóa Hy Lạp, những thầy thuốc, kể cả Hippocrates và đồng nghiệp, tin rằng sức khoẻ tùy thuộc vào 4 thứ chính: Máu, đờm, mật đen và mật vàng. Mỗi thứ liên hệ với một yếu tố chính trong thiên nhiên: mật đen liên hệ với đất (lạnh và khô, thuyết âm dương của Á Đông?). Máu liên hệ đến không khí (nóng và ẩm), mật vàng với lửa (nóng và khô), và đờm với nước (lạnh và ẩm). Bốn thể chất này cũng liên hệ đến 4 mùa của đất trời, đờm với mùa Đông, mật vàng với mùa Hạ, máu với mùa Xuân, và mật đen với mùa Thu. Việc chẩn bệnh dựa trên 4 thể tính này; người có quá nhiều mật đen (thổ vượng) thì bị trầm cảm (melancholic), quá nhiều mật vàng (hỏa vượng) thì nóng nảy (choleric)... Đại khái, sự mất quân bình giữa những thể tính gây ra bệnh tật. Cơn sốt (nóng và khô) là do việc gia tăng mật vàng trong cơ thể; như thế việc tạo ra đờm (lạnh và ẩm) sẽ chữa lành những cơn sốt!
Việc rút máu ra khỏi cơ thể cũng là một cách thông thường để tạo ra sự quân bình giữa những thể tính, cách này thường được sử dụng bởi những thày thuốc chuyên nghề mổ xẻ. Những nhân vật lịch sử của Hoa Kỳ được (bị) chữa trị theo cách rút máu là văn hào Geoffrey Chaucer và Tổng Thống George Washington. Ông cụ Washington chết sau khi bị rút đi 9 túi máu để chữa chứng nhiễm trùng cuống họng! Việc rút máu được sử dụng để chữa những cơn sốt; sau khi mất máu trầm trọng, những triệu chứng như xanh xao, chóng mặt và lạnh run được xem như thành công trong việc chữa trị cơn sốt!
Tại Âu Châu trong thời Trung Cổ, những bác thợ cạo trở nên những nhà giải phẫu nhờ việc sử dụng dao kéo một cách thành thạo. Sau khi các nhà tu bị cấm nhúng tay vào máu, một số lớn các thày thuốc (tốt nghiệp từ các trường Y khoa) chết vì nhiễm dịch hạch sau khi chữa trị cho bệnh nhân, người ta nhờ đến các bác phó cạo để rạch tay lấy máu chữa bệnh, và họ được sách vở gọi là "barber-surgeon"! Ngày nay việc rút máu chỉ còn được sử dụng trong việc chữa chứng polycythemia vera, một chứng bệnh khi tủy tạo ra hồng cầu một cách bất thường, và cơ thể có quá nhiều hồng cầu.
Ngày ấy, việc lấy máu chữa bệnh không chỉ hạn chế ở việc rạch mạch máu tay và để máu chảy, người ta còn dùng đỉa để hút máu và cả sức hút từ những ống "giác hơi" sau khi đã tạo những vết cắt trên da. Dế mèn không hiểu việc dùng đỉa, dùng sức hút của các ống giác hơi để rút máu nguồn gốc từ đâu, Âu hay Á?
Cách chẩn bệnh qua việc quan sát nước tiểu đã có từ thuở Hippocrates và những thầy thuốc thời Constantinople, thế kỷ thứ 12. Những ông tổ của Y học Âu Mỹ là Galen và Actuarius đã cho rằng sự hiểu biết (tim) mạch và nước tiểu sẽ dẫn đến việc chẩn đoán và chữa trị mọi chứng bệnh. Đã có rất nhiều sách vở y học thủa ấy viết về sự liên hệ giữa màu sắc của nước tiểu và bệnh tật! Đây là điều dễ hiểu vì ngày ấy ta chưa biết đến vi sinh. Đến thời Trung Cổ thì việc quan sát nước tiểu để đoán bệnh tật trở thành một món hàng được các thầy thuốc lang thang sử dụng để loè bịp người và trò đùa giỡn.
Dược thảo, trò lừa bịp hay căn bản của y học ngày nay?
Galen là ông tổ của ngành dược thảo Âu Mỹ, ông cụ là người đầu tiên đã dùng cây cỏ để chữa bệnh, và được xem như ông tổ của Dược Học Âu Mỹ. Thầy thuốc đã có mặt từ muôn ngàn năm, từ khi có con người và có bệnh tật và nghề "thày lang" thường "cha truyền con nối", những "bí mật" của nghề nghiệp thường được giữ kín. Vì thế, không có việc giảng dạy nghề thày lang tại trường ốc. Trong tất cả mọi nền văn hóa, nơi nào cũng có những người dùng hết cuộc đòi tìm hiểu sự bí mật của thiên nhiên. Sự hiểu biết của con người về cây cỏ dần dần phát triển mặc dù cả mấy ngàn năm đã qua, bây giờ ta mới bắt đầu hiểu được phần nào các chức năng của cơ thể con người! Cho đến thời Trung Cổ, người bệnh trông cậy vào thầy thuốc, dùng giản dị một vài thứ cây cỏ hay phức tạp hơn, cây cỏ hòa lẫn nọc độc của rắn rết hoặc trộn lẫn với cóc nghiền nát nấu chín dưới ánh trăng rằm (không hiểu trăng rằm khác với trăng non ra làm sao, sự thay đổi của đất trời hẳn ảnh hưởng đến sự hiệu nghiệm của các món thuốc men ngày ấy?). Mandrake, một loại cây, đã được dùng để chữa chứng liệt dương, và hiệu quả nhất khi người bệnh dùng thuốc tại nơi hành quyết như treo cổ hoặc chém đầu (việc lấy đi sự sống con người sẽ khiến quý ông mạnh khoẻ hơn về tính dục?). Dù thế nào, các thày lang ngày ấy vẫn được xem là những người chữa lành bệnh tật, và ngày nay được thay thế dần dần bởi các bác sĩ và dược sĩ.
Dược thảo vẫn được xem như loại thuốc men phổ thông tại nhiều nơi trên thế giới bên ngoài Hoa Kỳ và các quốc gia giàu có tại Âu Châu. Dù không được nhìn nhận như một ngành khoa học thực nghiệm, ngành (buôn bán) dược thảo vẫn sống hùng sống mạnh, bằng chứng là hàng năm, người Hoa Kỳ tiêu xài khoảng 300 triệu mỹ kim cho các loại thảo mộc như gingko biloba (bạch quả?), St John's Wort, tỏi và nhân sâm. Nhiều tỉ mỹ kim khác được dùng để mua các loại dinh dưỡng phụ có dược tính, dù các sản phẩm này không chịu sự kiểm soát của cơ quan Kiểm Soát Dược Phẩm & Thực Phẩm (the FDA). Ít nhất 30% người Mỹ tin rằng các món dinh dưỡng kia được buôn bán dưới sự kiểm soát và cho phép của chính phủ! Theo bản tường trình tháng Tư năm 2007 của trường Y tế Công Cộng của Đại Học Harvard, cũng một món "saw palmetto", nhưng khi 6 sản phẩm từ các thương hiệu khác nhau được đem ra phân chất, sự khác biệt về nguyên liệu chính khác nhau khá xa, từ -97% đến 140 %, nghĩa là có sản phẩm chỉ có 3% nguyên liệu chính, và có sản phẩm chứa đến 140% nguyên liệu chính so với nhãn hiệu của món sản phẩm ấy!
Thực ra, dược học ngày nay bắt nguồn từ việc hiểu biết dược tính của một số cây cỏ và vẫn sử dụng khá nhiều dược thảo trong việc chế tạo thuốc men. Chẳng hạn như digitalis, xuất phát từ cây foxglove, là một loại thuốc trợ tim từ thế kỷ thứ 18; reserpine, từ cây rauwolfia (dogbane) là một loại thuốc giảm huyết áp. Điều đáng ngạc nhiên nhất là việc không bao nhiêu thứ cây cỏ được chứng nhận tác quyền, kể từ thời vua chúa cho đến nay ngay cả sau khi văn phòng Tác Quyền của Hoa Kỳ (US Patent Office) được thành lập vào năm 1790. Có lẽ lý do chính là việc công bố nguyên liệu, khi có tác quyền, nghĩa là nguyên liệu ấy sẽ được công bố. Vì thế, để giữ "bí mật", các nhà sản xuất cứ việc xin thương hiệu (trademark) cho sản phẩm của mình rồi cứ thế mà buôn bán, thay đổi các nguyên liệu tùy mùa đắt rẻ mà không phải xin phép hoặc báo cho chính phủ biết!
Việc quảng cáo thuốc men là việc rất thông thường khắp nơi từ Âu sang Á, ở quê nhà, ta có những màn Sơn Đông mãi võ, những người bán rong dùng thú vật, dùng những trò múa võ để thu hút người xem, và sau đó bán thuốc men. Ở Âu Châu và Hoa Kỳ cũng có những người bán rong tương tự. Nổi tiếng nhất là gánh Kickapoo Indian Medicine Company, họ có đủ các màn nhảy múa, hóa trang thành người da đỏ. Việc quảng cáo của gánh hát này dựa trên huyền thoại dùng thảo mộc chữa bệnh tật của người da đỏ, dù trong cả gánh hát chẳng có một người da đỏ nào, và các món thuốc men vẫn cứ bán ào ào! Thủa nào cũng có những người mua niềm tin, để được mạnh khoẻ, để được yêu thương... Người ta có cả những lá thư do chính người tiêu thụ viết, để cám ơn để ghi nhận việc "thành công" của món hàng nào đó. Những lá thư này được sử dụng tối đa bởi người bán. Điều dễ hiểu là những người sử dụng, thích tên mình được nhắc nhở đến trên báo chí hoặc trở thành một bảng quảng cáo xanh đỏ vĩ đại nên không ngần ngại cho phép. Lá thư nổi tiếng nhất do ông Fred Wicks viết ca ngợi món thuốc tiên Tanlac đã giúp ông ta ăn no ngủ kỹ, tâm thần minh mẫn. Lá thư này đăng ngày 11 tháng Năm, năm 1917, trên báo Holyoke Daily Transcript, phiền một nỗi là cùng ngày, tờ báo lại đăng tải bài cáo phó của chính ông này!
Nói chung, quảng cáo hay không, sự thu hút của thuốc men bán tự do đã dựa trên một căn bản quan trọng: Người bệnh có thể tự chẩn đoán bệnh tật của mình, tự chữa trị và tự thẩm định kết quả của việc chữa trị ấy!
Khi tự quyết định, self-determination, làm theo ý mình sẽ khiến người ta cảm thấy thoải mái và an tâm hơn. Việc tự quyết này đôi khi dẫn đến sự nghiện ngập, nhất là khi các thứ thuốc men chứa rượu và nha phiến, và được bán tự do cho khách hàng đủ mọi lứa tuổi. Những sản phẩm nổi tiếng một thời bao gồm "Mrs. Winslow's Soothing Sirup", "Laudanum", "La Fée Verte"... Món thứ nhất, dù chẳng ai biết bà Winslow là nhân vật thế nào nhưng một cái tên có vẻ "từ mẫu" như thế lại đứng chung với việc "xoa dịu" (soothing) hẳn phải là thứ hay ho? Món này chứa morphine, nên ai dùng cũng thấy lâng lâng là điều dễ hiểu! Laudanum được xem như thuốc bổ của người nghèo (working class drug) chứa nha phiến, rượu, quế và saffron. Vì được bán theo dạng "thuốc men" nên không bị đánh thuế như rượu vào thời kỳ rượu bị đánh thuế nặng nề! Những quý tộc và những văn hào Anh đã viết về kinh nghiệm nghiện Laudanum của mình trong sách vở của họ, như thế đủ cho ta thấy là món "thuốc" này phổ thông vô cùng. Uống rượu nhiều hẳn bị cho là "nghiện ngập" say sưa nhưng uống "thuốc bổ" thế này hẳn được xã hội chấp nhận và không thắc mắc chi? Còn "La Fée Verte"? Món này chính là absinthe, xuất phát từ lá và cành cây wormwood. Absinthe được sử dụng từ thuở xa xưa, chính cụ Pythagoras (thiên tài toán học của nhân loại) đã dùng thứ dược thảo này để giảm đau đớn cho các bà mẹ lúc lâm bồn và cả tổ sư Y học Âu Mỹ, cụ Hippocrates đã dạy học trò dùng absinthe để chữa phong thấp (rheumatism) và chứng vàng da (jaundice). Món thuốc này trở nên lẫy lừng và phổ thông vào đầu thế kỷ thứ 20, được rất nhiều họa sĩ nổi tiếng sử dụng, từ Edgar Degas, Edouard Manet, Pablo Picasso, và cả Vincent van Gogh... Điều dế mèn chưa giải thích được là tại sao absinthe lại phổ thông trong giới hội họa như thể? Các khớp xương đau nhức vì... cầm cọ chăng? Hổng hiểu, hổng hiểu!
Một thí dụ khác, bắt nguồn từ việc trốn thuế, rượu được bán như thuốc men từ thời King George II. Gin bị đánh thuế nặng nề nên các nhà sản xuất rượu pha thêm một ít cây cỏ, khiến loại thức uống này có vị đắng, có tên là "bitters" và bán như thuốc bổ. Bitters chứa rượu có nồng độ cao đến 75 proof!
Ngược lại, có tác quyền hay không, cũng có những loại "thuốc" chẳng chứa một thứ nguyên liệu "chính" (active ingredient) nào cả, chẳng hạn như món Munyon's Kidney Cure. Món này là một hỗn hợp của đường và nước! Dù chẳng có công dụng gì, người mua vẫn xếp hàng để rinh về nhà món thần dược này. Như văn hào Mark Twain đã viết về bà mẹ của ông "Mẹ tôi mua tất cả mọi loại thuốc có bản quyền (patent medicine) dù có cần thiết hay không, và bà thử tất cả mọi loại thuốc men có trong tay..."
Dụng cụ & cách chữa trị được rao bán như những “phép lạ” của y học
Việc lừa gạt trong Y học không chỉ giới hạn ở các loại thuốc men mà còn lan man đến những dụng cụ máy móc, những thứ được rao bán như “phép lạ”, những thỏi nam châm, máy điện và ngay cả các chất phóng xạ! Vào cuối thế kỷ thứ 19, khi các loại thuốc men được giữ tác quyền một cách rầm rộ, một số máy móc dùng điện hoặc từ trường để chữa bệnh cũng trở nên phổ thông trong Y học.
Bác sĩ nổi tiếng, ông Albert Abrams, chủ tịch Hội Đồng Y Khoa Giải Phẫu San Francisco kiêm Phó Chủ Tịch Hiệp Hội Y Sĩ Đoàn North Carolina đã bán cuốn sách đầy những phép lạ về chỉnh hình của mình với lý thuyết, gõ vào xương sống vài lần là có thể chữa bá bệnh. Ông này xuất bản một vài cuốn sách rao bán các phép lạ về Y học do ông ta khám phá, kể cả dùng sự rung động (vibration) của cơ thể mà chẩn đoán bệnh tật. Bệnh nhân cứ việc gửi một tấm ảnh, mẫu chữ viết, ông bác sĩ này có thể nhìn hình và đọc chữ viết mà đoán ra bệnh tật do sự “rung động” từ những vật thể ấy. Ông Abrams có vô số người tin theo và người ta kiếm được rất nhiều tiền trong việc bán các thứ máy móc để đo sự “rung động” của cơ thể con người. Thủa ấy, FDA còn phôi thai và chưa được quốc hội Hoa Kỳ cho quyền kiểm soát các loại máy móc dùng trong việc chẩn bệnh và chữa bệnh, gọi chung là medical devices, như ngày nay. Môt nhân vật lẫy lừng khác, Bác Sĩ John Romulus Brinkley, dùng radio để rao bán các dịch vụ làm gia tăng sức khỏe của quý ông. Ngoài các thứ thuốc men do chính ông ta bào chế với các dược liệu bí mật, ông bác sĩ này còn dùng một thứ giải phẫu khá lạ lùng. Ông ta ghép các mô tinh hoàn lấy từ người chết, dê hoặc khỉ vào quý ông cao niên để giúp họ gia tăng tính dục!
Từ thời cổ Hy Lạp, khi con người khám phá ra rằng lực ma sát tạo ra điện và sức hút, điện lực trở nên một khái niệm kích thích sự tò mò tìm kiếm của con người. Những máy móc dùng điện lực đã được rao bán như những dụng cụ Y khoa làm tăng sức khỏe và tính dục.
Sản phẩm phổ thông nhất thủa ấy là “Giant Power 80-Gauge Belt”, một loại thắt lưng dẫn điện, dòng điện được chuyển vào cơ thể để kích thích sự tuần hoàn và các thần kinh, chữa trị từ chứng liệt dương cho đến việc mất kiểm soát bàng quang. Người ta còn cắt cả ống dẫn tinh để chữa chứng liệt dương! Và cách chữa trị quái đản nhất có lẽ là việc đặt bệnh nhân bị giang mai (syphilis) ngồi trong chậu nước, và truyền điện vào chậu nước để trị bệnh.
Nam châm và từ trường cũng được sử dụng khá nhiều để chữa bệnh. Khái niệm dùng từ trường để chữa bệnh khởi đầu bởi Bác Sĩ Franz Anton Mesmer, một học giả về Thần Học, Luật, Triết và Y. Ông cụ thông thái này cho rằng cơ thể con người có 2 cực, như 2 cực của nam châm, và khi rà một thỏi nam châm từ đầu đến chân người bệnh sẽ giúp máu lưu thông dễ dàng, cơ thể sẽ mạnh khỏe tráng kiện hơn khi nhận được luồng năng lực từ thiên nhiên có tên là “fluidum”. Tương tư như khái niệm “chi” (khí?) của Trung Hoa, “fluidum” luân lưu di chuyển qua mọi sinh vật cũng như trời và đất. Và ông bác sĩ thông thái nhiều lãnh vực này đi lang thang để chuyển “fluidum” vào thân thể bệnh nhân bằng cách sờ vào thân thể họ!
Từ trường và nam châm được bỏ quên trong một thời gian khá lâu sau khi chẳng có mấy bệnh nhân được chữa chữa trị khỏi bệnh. Từ cuối thế kỷ thứ 20 cho đến nay, khái niệm dùng từ trường từ từ trở lại trong một vài loại dụng cụ y khoa. Sự hiểu biết thêm về từ trường giúp ta chế tạo một vài thứ máy móc. Ngày nay chúng ta dùng magnetic resonance imaging (MRI) để tạo ra hình ảnh của những bộ phận trong cơ thể. Và ta cũng biết rằng các loài di điểu dùng từ trường để tìm phương hướng mà bay đi bay về theo thời tiết. Điều này có nghĩa là còn những lý thuyết khác về từ trường mà ta chưa hiểu rõ và dĩ nhiên là chưa biết cách áp dụng. Dế mèn chưa biết những chiếc vòng có nam châm sẽ giúp người ta những gì nhưng vẫn thấy nhiều người đeo những chiếc vòng ấy.
Chất phóng xạ
Khi bà Marie Curie cùng chồng là ông Pierre Curie tìm ra chất phóng xạ vào năm 1897 thì cả thế giới bị thu hút. Và người ta tìm cách sử dụng những lý thuyết mới vào việc chữa bệnh, gia tăng sức khỏe, nhắm vào cái “lợi” mà quên cái “hại” của chất phóng xạ! Người ta đã chế tạo và bán các loại thuốc men chứa chất phóng xạ để chữa mọi thứ bệnh tật, nổi tiếng nhất là việc chữa chứng liệt dương bằng một hợp chất bao gồm mesothorium và radium, có tên là “Radithor”. Sao thời đại nào người ta cũng hăm hở chữa chứng liệt dương bằng những phương cách quái đản và liều lĩnh nhất? Hổng hiểu hổng hiểu! Những người dùng thuốc này bị nhiễm độc phóng xạ, người bệnh chết vì nhiễm độc nổi tiếng nhất là triệu phú Eben M. Byers. Ông Byers dường như đã dùng từ 1,000 đến 3,000 lọ Radithor trong vòng 2 năm. Khi chết, ngay cả hơi thở của ông triệu phú bất hạnh, giàu tiền nhưng nghèo sức khỏe, cũng chứa chất phóng xạ! Cái chết của ông Byers gây tiếng vang khiến nhà khoa học Robley Evans bắt đầu tìm hiểu về sự an toàn của chất phóng xạ. Chính bà Marie Curie, một khoa học gia lỗi lạc của nhân loại, khi tìm kiếm và sau đó khám phá ra chất phóng xạ cũng bị nhiễm độc phóng xạ trầm trọng. Các ngón tay bà cụ bị radium đốt cháy và cả tủy xương cũng bị chất phóng xạ hủy hoại, bà Marie Curie chết vị bệnh hoại huyết (leukemia, một loại ung thư bạch cầu).
Chất phóng xạ được sử dụng rất rộng rãi trong nhiều năm, từ việc chữa chứng sưng hạch nước miếng đến chứng cận thị, viêm khớp xương đến lao phổi, tóm lại là bá bệnh không kể nguyên nhân! Ngày nay, đã có những phương pháp phòng ngừa và theo dõi (những người sử dụng chất phóng xạ trong phòng thí nghiệm đều được theo dõi hàng tháng, đo mức chất phóng xạ trên quần áo thân thể) dấu vết của sự nhiễm độc.
Việc giải thích và chấp nhận khái niệm về cái hại của chất phóng xạ dường như có giới hạn, vì vẫn có rất nhiều người Hoa Kỳ thăm viếng các “Mỏ Sức Khỏe” (Health mine), để tắm và thở tại những hầm mỏ uranium cũ (không còn hoạt động) để gia tăng sức khỏe, cũng như những người Nga vẫn tắm ở những bồn tắm chứa radon khắp nơi trên lãnh thổ Nga Xô.
Ở thời đại nào cũng có những người dễ tin, những người đau khổ mòn mỏi vì bệnh tật đi tìm cách chữa trị như những giải pháp cuối cùng và như thế, họ trở nên cả tin và dễ bị lường gạt. Dường như văn hào Marcel Proust đã chẩn bệnh một cách rất chính xác căn bệnh đi tìm sự giải thoát: Bệnh tật là một bác sĩ mà ta tin theo nhất. Với lòng tử tế, với kiến thức cao minh ta chỉ hứa hẹn. Với sự đau đớn, ta vâng lời. Với bất cứ gia nào. (Illness is the doctor whom we pay most heed. To kindness, to knowledge, we make make promises only. Pain we obey. At any cost). Và câu nói của ông bà mình “có bệnh thì vái tứ phương” đã nói gần hết những lý do khiến con người trở nên yếu lòng và cả tin.